Cô Bé Mỏ Than Tuyên Quang: Sự Tích & Đền Thờ Linh Thiêng

Cô Bé Mỏ Than là một thánh cô bản cảnh, ngự trên Đền Cô Bé Mỏ Than thuộc tỉnh Tuyên Quang. Trong tâm thức dân gian, cô được xem là một trong những hóa thân của Cô Bé Thượng Ngàn trên mảnh đất này. Để hiểu rõ hơn về vị thánh cô đặc biệt này, chúng ta hãy cùng nhau khám phá sự tích đầy màu sắc huyền thoại và không gian linh thiêng nơi cô được thờ phụng.
Mỏ Than Cô Bé thấp cao
Mấy tầng lộng lẫy treo vào cây xanh
Xa xưa huyền thoại chuyển mình
Linh từ chốn ấy anh linh muôn đời
Hang Rùa nước đọng đầy vơi
Vết chân còn đó muôn đời về sau….
Sự Tích Về Cô Bé Mỏ Than
Câu chuyện về Cô Bé Mỏ Than được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang đậm yếu tố huyền thoại và thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với vị thánh cô đã bảo vệ mỏ than quý giá. Tương truyền rằng, xưa kia, Thần Kim Quy ngự ở miền Đông Hải, nghe tin Vua Cha và Thánh Mẫu sở hữu một mỏ quý bèn nảy sinh lòng tham. Hắn rủ Đông Hải Kình Ngư cùng nhau đánh cắp mỏ than, mang về Nam Hải làm của riêng. Kình Ngư được giao nhiệm vụ canh giữ bên ngoài mỏ, còn Kim Quy lén lút xâm nhập vào hang.
Tuy nhiên, hành động mờ ám của chúng không qua mắt được Ông Cóc, vị thần cai quản miếu sơn thần gần đó. Nghi ngờ có kẻ gian tà, Ông Cóc nghiến răng kẽo kẹt. Tiếng nghiến răng của “cậu ông trời” vang vọng đến tận thiên cung, đánh động Vua Cha Ngọc Hoàng. Ngài liền phái Cô Bé cưỡi hai con thiên long xuống trần gian để ngăn chặn hành vi trộm cắp.
Khi Cô Bé hạ phàm, cô bắt gặp Thần Kim Quy đang lén lút bên ngoài hang. Không chút do dự, cô nhảy xuống, dùng chân chẹn lên cổ Kim Quy. Trong lúc giao chiến, chân phải của cô trượt lên lưng rùa, để lại một vết mờ, còn chân trái thì đè chặt lên cổ rùa. Ngay lập tức, vị thần rùa hóa đá, cá kình cũng chịu chung số phận. Cô Bé tiếp tục bắt Ông Ba Mươi phủ phục bên mình, rồi xin Vua Cha và Thánh Mẫu cho phép cây cối mọc lên, bao phủ lấy mỏ than, tạo bóng mát quanh năm. Cô ở lại trần gian, chữa bệnh cứu người, giúp đỡ dân lành. Những lúc rảnh rỗi, cô thường gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát.
Trước khi rời đi, Cô Bé thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen, hóa thành đôi long xà có mào để canh giữ đền phủ. Tương truyền rằng, những ai thành tâm sẽ được nhìn thấy đôi long xà và được ban phúc lộc, công danh. Ngược lại, những kẻ có dã tâm, đến cầu xin cửa cô với ý đồ xấu xa, sẽ bị trừng trị, khiến gia trung náo loạn. Nhờ ơn Cô Bé, mỏ than quý giá vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay.
Câu chuyện về Cô Bé Mỏ Than không chỉ là một truyền thuyết, mà còn là lời nhắc nhở về lòng biết ơn đối với những người đã có công bảo vệ tài nguyên của đất nước. Mãi về sau, khi thực dân Pháp tìm ra mỏ than, gọi nó là “vàng đen” của đất nước, người dân vẫn luôn nhớ đến công ơn của Cô Bé. Khi hầm mỏ bị sập, gây ra nhiều thương vong, dân gian đồn rằng đó là do thực dân Pháp đã phạm phải đất thiêng của Thánh Cô. Từ đó, cô được tôn xưng là Cô Bé Mỏ Than, được thờ tại đền Mỏ Than, nơi có tượng Kim Quy, Kình Ngư và Ông Ba Mươi phủ phục.
Đền Thờ Cô Bé Mỏ Than Tuyên Quang
Đền Mỏ Than, nơi thờ Cô Bé Mỏ Than, tọa lạc tại phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang. Nơi đây không chỉ thờ Cô Bé Mỏ Than mà còn thờ Mẫu Thượng Ngàn và Đức Thánh Trần Triều. Chính vì vậy, Đền Mỏ Than là một điểm đến tâm linh quan trọng, thu hút đông đảo du khách và người dân địa phương đến cầu nguyện, chiêm bái.
Lịch Sử Hình Thành và Phát Triển
Đền Mỏ Than được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, trên một ngọn đồi nhỏ, bao quanh bởi cây cối xanh tươi. Dưới chân đồi là dòng sông Lô uốn lượn, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và thanh bình. Ban đầu, đền được dựng nên để thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần). Tuy nhiên, sau này, đền trở thành nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn và các vị thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Sự thay đổi này có liên quan đến một sự kiện lịch sử quan trọng.

Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đặt ách cai trị lên vùng đất Tuyên Quang và bắt đầu khai thác khoáng sản, vơ vét tài nguyên thuộc địa. Năm 1915, chúng mộ phu khai thác mỏ than Tuyên Quang. Tên chủ mỏ người Pháp, Becna, đã cho xây dựng bể nước, cần cẩu và đường goòng xe để chở than. Chúng bắt công nhân làm việc quần quật suốt ngày đêm, ăn uống thiếu thốn, ốm đau không được nghỉ ngơi. Ngày 26 tháng 4 năm 1924, một vụ tai nạn nghiêm trọng đã xảy ra, hai cửa hầm bị sập, chôn vùi hàng chục thợ mỏ dưới lòng đất. Nguyên nhân được cho là do chủ mỏ thiết kế khai thác không an toàn.
Người dân địa phương tin rằng, tai nạn này là do thực dân Pháp đã phạm đến Bà Chúa Rừng Xanh. Vì vậy, họ đã cùng nhau dựng một ngôi đền mới bên cạnh “Sơn Thán Linh Từ” để thờ Mẫu Thượng Ngàn và lấy tên gọi là đền Mỏ Than. Do tín ngưỡng thờ Mẫu ngày càng phát triển, người dân đến đền để cầu mong được Thánh Mẫu phù hộ, lâu dần đền thờ Đức Thánh Trần bị mai một và hiện nay chỉ còn là một am nhỏ nằm trong khuôn viên di tích đền Mỏ Than.
Ngoài ra, đền Mỏ Than còn là nơi tổ chức nhiều cuộc họp, gặp gỡ, trao đổi tình hình của các cán bộ cách mạng. Ngày 20/3/1940, chi bộ Mỏ Than (chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang) được thành lập. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ, phong trào cách mạng ở mỏ than phát triển sâu rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các vùng xung quanh, xây dựng được những cơ sở cách mạng trong công nhân thuyền sắt, trong nông dân ở các vùng soi Sính, soi Hồng Lương, Hoàng Khai, Mỹ Lâm…
Kiến Trúc Độc Đáo và Linh Thiêng
Đền Mỏ Than nằm trên đỉnh Thán Sơn, bốn mùa rợp bóng cây xanh, trong khuôn viên rộng 1407,2 m2. Từ dưới chân núi, theo đường lát đá lên tới đền, hai bên là những hàng cổ thụ rợp bóng mát, cùng những phiến đá đen hình dáng lạ mắt. Với vẻ đẹp thơ mộng và sự nổi tiếng linh thiêng, ngôi đền Mỏ Than đã từng đi vào thi ca.
Đền Mỏ Than hiện nay có kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm tòa tiền đường và hậu cung, đền quay theo hướng Đông Nam. Phía trước là bức bình phong được xây bằng gạch, tạo dáng hình cuốn thư, ở giữa đắp nổi chữ thọ tròn, hai bên là hình rồng chầu cách điệu và hoa văn kỷ hà, phía dưới ghi năm khánh thành đền Mỏ Than (năm 1935).
Phía sau bức bình phong là toà tiền đường, ba gian, diện tích 10mx 4m, kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Trên bờ nóc đắp nổi hình rồng chầu mặt trời, xung quanh có hệ thống tường chịu lực bằng vật liệu bền vững. Phía trước hai gian bên trổ cửa sổ hình chữ thọ. Toà tiền đường kiến trúc khá đơn giản; các cấu kiện được bào trơn đóng bén, mái lợp ngói mũi hài. Gian giữa treo câu đối:
Càn khôn Thánh đức an dân đại
Nhật nguyệt thần công hộ quốc trường
(Thánh đức an dân sánh cùng trời đất.
Công lao hộ quốc mãi cùng năm tháng).
Hậu cung liền với gian giữa tiền đường, diện tích 3m x 3m, nền lát gạch hoa, xung quanh được bưng kín bằng vật liệu bền vững. Phía ngoài là án thờ bằng gỗ cao 1,4m, sơn son thếp vàng, đặt lư hương, đỉnh trầm. Trên là cửa võng chạm nổi hình rồng chầu và hoa văn hình kỷ hà. Phía trong án thờ là khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, phía trên là cửa võng chạm nổi hình rồng chầu mặt trời cách điệu và hoa văn kỷ hà. Phía trong đặt bộ tượng Tam toà Thánh Mẫu: Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải. Tượng đúc bằng đồng, cao 0,70m, hình dạng giống nhau, khuôn mặt dạng nữ, đội mũ tỳ lư, cổ đeo anh lạc, tư thế ngồi tọa thiền, khoác áo choàng.
Từ đền Mẫu sang phải, lên bậc tam cấp là tới sân đền thờ Đức Thánh Trần. Phía ngoài là ban thờ Mẫu Bán Thiên Cửu trùng. Phía trước đền có một phiến đá đen lớn hình dáng tựa rồng chầu, xung quanh nhiều cây xanh tỏa bóng. Đền Đức Thánh Trần là ngôi kiến trúc một gian, xây dựng bằng vật liệu bền vững, diện tích 24 m2. Phía ngoài là là nơi khách hành hương cúng lễ, phía trong đặt ban thờ, xây kiểu vòm cuốn. Ban thờ cao 1,5m, xây gạch, kiểu dật cấp. Phía ngoài đặt nhang án lư hương các đồ tế tự và minh khí. Tượng Đức Thánh Trần đặt trong khung kính. Tượng cao 0,70m, tư thế ngồi, đội mũ võ tướng, khuôn mặt vừa cương nghị vừa hiền từ, chòm râu dài, mặc triều phục, chân đi hia, hai tay để lên đầu gối. Phía dưới ban thờ Đức Thánh Trần là tranh thờ ngũ hổ.
Phía sau đền thờ Mẫu, qua một khoảng sân rộng là lầu Chúa Sơn Trang; bên trái lầu Bà Chúa Sơn Trang có đường dẫn tới một hang đá, nơi có lầu thờ Cô Bé Mỏ Than. Cạnh miếu có những phiến đá hình dạng kỳ lạ gợi mở trí tưởng tượng của du khách. Trong đó phải kể đến hang Rùa mà nhân dân địa phương vẫn truyền cho nhau nghe về truyền thuyết “Thần Kim Quy hóa đá”.
Các hiện vật trong đền còn lưu giữ gồm: Bảy pho tượng đồng đúc năm 1923, (Bảo Đại thứ bảy); hai quả chuông đồng cùng niên đại; ba đôi chân đèn; hai lư hương đồng và ba đạo sắc phong cùng nhiều bức đại tự, câu đối và các đồ tế tự. Đền Mỏ Than được Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang xếp hạng là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh ngày 19/11/2007. Những năm gần đây, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã tiến hành tôn tạo, tu bổ ngôi đền, xây tường rào bảo vệ, làm đường đi tạo điều kiện thuận tiện cho người dân và du khách khi đến hành hương, tham quan vãn cảnh ngôi đền.
Các Ngày Lễ Hội Tại Đền Cô Bé Mỏ Than
Các ngày lễ chính tại đền Cô Bé Mỏ Than là dịp để người dân và du khách thập phương tụ hội, dâng hương cầu nguyện và tham gia vào các hoạt động văn hóa tâm linh đặc sắc. Dưới đây là danh sách các ngày lễ quan trọng:
- Lễ đón xuân, ngày 1, 2, 3 tháng Giêng
- Lễ khai bút: ngay 16 tháng Giêng
- Lễ thượng nguyên, ngày 11, 12 tháng Giêng
- Tiệc Mẫu Tuyên Quang, ngày 18 tháng Hai
- Lễ nhập hạ, ngày 24 tháng Sáu
- Tiệc Hoàng Bảy, ngày 18 tháng Bảy
- Tiệc Trần Triều, ngày 20 tháng Tám
- Tiệc Mẫu Cửu, ngày 9 tháng Chín
- Tiệc ông Hoàng Mười, ngày 10 tháng Mười
- Tiệc quan Giám Sát ngày 17 tháng Mười Một
- Lễ tất niên, ngày ngày 9 tháng Chạp
- Lễ xếp ấn, ngày 25 tháng Chạp
Bản Văn Cô Bé Mỏ Than
Ai đi lên mẫu Tuyên Quang
Nhớ đền cô bé Mỏ than thì vào
Mỏ Than cô bé thấp cao
Mấy tầng lộng lẫy treo vào cây xanh
Xa xưa huyền thoại chuyển mình
Linh từ chốn ấy anh linh muôn đời
Hang rùa nước đọng đầy vơi
Vết chân còn đó muôn đời về sau
Nhớ ơn cô bé từ lâu
Nhân dân truyền tục lập ngôi đền thờ…